Tsavorite (green grossular garnet) với màu xanh lục quý hiếm được phát hiện năm 1961 tại Zimbabwe bởi nhà địa chất học Campbell R. Bridges. Viên đá quý màu xanh lục tuyệt đẹp này thuộc nhóm Garnet, được đánh giá có độ chiếu sáng rực rỡ và hiếm hơn cả Emerald. Những viên chất lượng tốt được khai thác ở khu vực biên giới Kenya – Tanzania.

“Tsavorite is everything that a fine gemstone should be, and then some.” – Harry Platt, President of Tiffany & Co.
Trong cùng nhóm Garnet, Red Garnet phổ biến và có lịch sử lâu đời. Green Garnet, Tsavorite, có màu xanh lục quý hiếm do được hình thành bởi khoáng sản có tính chất hóa học bất thường và trong điều kiện địa chất đặc biệt.
Tsavorite: green grossular garnet, Demantoid: green andradite garnet.
Cùng là green garnet, Demantoid, Tsavorite là những đá quý hiếm và giá trị cao nhất. Nhưng trọng lượng riêng và độ tác sắc của demantoid vượt trội hơn hẳn.
Lịch sử đá quý Tsavorite
Năm 1961, Campbell R. Bridges, nhà địa chất người Anh, đã tìm thấy viên đá thô màu xanh lục tuyệt đẹp tại Zimbabwe, có tính chất khoáng học thuộc nhóm đá quý đầy màu sắc Garnet.
Viên đá quý Green Garnet thứ hai được ông phát hiện tại Tanzania in 1967. Viên đá này có màu sắc cực kỳ đẹp và độ trong suốt tốt.

Trước cuối năm 1970, Ông đã tìm thấy đá Green Garnet của Kenya đầu tiên trong khu vực Vườn quốc gia Tsavo gần biên giới với Tanzania.

Vào cuối năm 1973, Henry B. Platt, Chủ tịch của Tiffany & Co., rất thích thú với những viên đá green garnet mới được khám phá. Campbell Bridges và Henry Platt đã đặt tên thương mại cho viên đá quý xanh lục rực lửa tuyệt đẹp này là: “Tsavorite”. Tsavo là địa danh xuất xứ của viên đá quý. “ite” là hậu tố của tên một khoáng chất theo quy định về danh pháp khoáng vật học hiện đại.
CIBJO (Confederation Internationale de la Bijouterie, Joaillerie, et Orfevrerie) đã đưa ra phán quyết chấp nhận tên thương mại ‘Tsavorite’.
Năm 1974, Tiffany & Co. bắt đầu một chiến dịch quảng bá rộng rãi khiến Tsavorite nổi danh ở Hoa Kỳ.
Đặc tính của đá Green Garnet
Tsavorite là một trong những loại đá quý hoàn toàn tự nhiên. Không xử lý nhiệt, làm đầy vết nứt hoặc chiếu xạ để tăng cường màu sắc, độ trong.
Về cơ bản, viên đá quý xanh lục Tsavorite, Green Garnet, là thành viên giàu Canxi thuộc nhóm Garnet.

Về mặt hóa học, loại đá quý này là một silicat nhôm canxi (calcium aluminium silicate) được tạo màu bởi chromium và ôxít vanadium. Viên đá có màu hơi vàng chuyển sang màu xanh lục là có oxit sắt.
Tsavorite có màu xanh lá cây rất đẹp, từ màu xanh lá cây tươi mát của mùa xuân, đến màu xanh lá cây xanh đậm, đến màu xanh lá cây rừng sâu. Trong tất cả các loại đá quý màu xanh lá cây có giá trị, Tsavorite là loại đá có màu xanh lục chân thực nhất.

Một viên đá Tsavorite được mài cắt giác tốt rất sáng và lấp lánh hơn cả những viên đá “sleepier Emerald” bởi hai yếu tố chính:
- Chiết suất cao hơn đáng kể ở mức 1,74 so với của Emerald là 1,57.
- Độ tán sắc là 0,028 cao gấp đôi so với độ tán sắc của Emerald chỉ là 0,014.
Tsavorite có độ sáng rực rỡ hơn rất nhiều khi được đính với Kim cương.

Một ưu điểm khác biệt khác là dù có cùng độ cứng (7.25 đến 7.5 trên Moh’s Scale), Green Garnet cứng hơn và bền hơn Emerald. Tsavorite cũng hiếm hơn Emerald ít nhất 1000 lần, đặc biệt là ở kích thước trên 3 carat.
Về màu sắc, các màu có giá trị nhất là màu xanh lá cây thuần khiết hoặc màu xanh lá cây rừng (pure green or rich forest green), hay có đới màu ‘xanh lam’ và màu vàng (Bluish green and yellowish green).

Khai thác tại mỏ Scorpion
Tsavorite là một loại đá quý hiếm, được khai thác với chất lượng đá quý tốt chỉ có ở khu vực biên giới Kenya – Tanzania. Các mỏ ở Ruangwa, Tanzania không quá lớn hoặc rộng.
Một số mỏ đã cạn, số khác không khai thác tốt, hoặc không được khai thác vượt quá định mức.
Nổi tiếng nhất là mỏ Scorpion Mine tại Kenya do công ty Bridges Tsavorite, được thành lập bởi Campbell Bridges, khai thác.
Mỏ Scorpion được đặt tên theo quần thể Bọ cạp lớn sinh sống trong khu vực. Đây là một trong một số địa điểm khai thác gần Công viên Quốc gia Tsavo. Khu vực mà Campbell Bridges phát hiện vào năm 1970 sau khi tìm kiếm và khai thác ở Tanzania gần đó (nơi ông ban đầu phát hiện ra đá Tsavorite vào năm 1967).
Khu mỏ nằm ẩn mình giữa những ngọn đồi trập trùng, phía Nam dãy Mindi, thuộc quận Taita-Taveta, phía Tây Nam Kenya. Được bao quanh bởi hàng dặm đất khô cằn của cây keo và cây cọ gai, đàn voi hoang dã vẫn lang thang khắp khu vực, gặm cỏ trên lá cây gai. Khu vực này còn có các loài thú ăn thịt săn mồi.




Tất cả những viên đá thô chất lượng được mài cắt giác tại Bridges Tsavorite ở Kenya. Những viên đá thô nhỏ hơn được thuê gia công bên ngoài.

Những viên đá thành phẩm được xuất khẩu tới văn phòng kinh doanh chính của Bridges Tsavorite ở Tucson hoặc cho khách hàng trên toàn thế giới.

Right: This suite of three pear-shaped tsavorites totals 37.79 carats.
Photos by Duncan Pay/GIA; courtesy of Tsavorite Factory.



Nhu cầu về đá tsavorite trên thị trường đăng tăng ở mức cao nhất mọi thời đại, vượt xa nguồn cung hiện có. Đặc biệt là khách hàng ở Trung Quốc và các nước châu Á khác. Những nhà buôn đá người Sri Lanka mua tsavorite nhiều nhất tại nguồn ở Arusha, Tanzania để cung cấp cho thị trường Trung Quốc. Những nhà buôn này sẵn sàng trả giá rất cao cho tsavorite thô.

116,76 ct square cushion-cut Tsavorite
Hơn 50 năm sau khi Campbell Bridges phát hiện ra loại đá quý này, tại triển lãm đá quý AGTA Tucson 2019, viên đá Tsavorite nặng 116,76 ct, giác cắt “square cushion-cut” lớn nhất từ trước đến nay được công bố.
Viên đá thô 283,74 ct được khai thác bởi Bridges Tsavorite ở Merelani, Tanzania, vào tháng 9/2017. Viên đá này cực kỳ sạch so với kích thước.
Viktor Tuzlukov, nghệ nhân mài cắt giác đá quý danh tiếng người Nga, đã tạo ra một trong những viên Tsavorite mài giác hiếm thấy nhất.





Nguồn: