Những cuộc khai quật khảo cổ đã cho thấy được sự phát triển của ngành chế tác kim hoàn cổ xưa của cha ông ta đã phát triển từ thời các Vua Hùng. Trang sức đã thể hiện phần nào nét tinh hoa của nền văn minh Việt cổ.
Nhiều di vật chứng tỏ thời kì này nhiều nghề tồn tại trong đó có: nghề đúc, nghề đãi vàng, đặc biệt là nghề làm đồ trang sức. Nhiều sản phẩm của văn hóa Đông Sơn đã du nhập lan tỏa vào vùng đất phương Nam của Đông Nam Á và giao lưu trên một địa bàn rộng lớn như Mã Lai, Phi Líp Pin, Đài Loan v.v… Hàng chục các di chỉ là các đồ trang sức như vòng tay, nhẫn, chuỗi hạt có kĩ thuật cao được tìm thấy ở Tràng Kênh – Hải Phòng, Bãi Tự – Hà Bắc và Cồn Cấu, Bái Tê – Thanh Hóa.
Thủ lĩnh quân sự thời Hùng Vương có tấm đồng che ngực hình chữ nhật hay hình vuông có trang trí, có đai lưng với khóa đồng to bản có trang trí và đính thêm những chiếc nhạc đồng nhỏ.
Người thời Hùng Vương ưa dùng đồ trang sức. Nam cũng như nữ đều đeo vòng tai, đeo nhẫn, hạt chuỗi và phổ biến nhất là vòng tay.

Kiểu trang sức thật là nhiều mầu vẻ: vòng tai hình tròn, hình vành khăn; hạt chuỗi hình tròn, hình trụ, hình trái soan; nhẫn có tiết diện hình tròn, hình thừng bện; vòng tay có tiết diện hình tròn, hình bán nguyệt, hình chữ nhật, hình vuông, hình thang…
Hầu hết đồ trang sức làm bằng đá hiếm (màu vàng, màu xanh, nhiều màu), bằng đồng thau. Thỉnh thoảng có cả ngọc. Nhờ sự chăm chú gia công và khiếu thẩm mỹ tinh tế, kỹ thuật chế tác tinh xảo, người thợ khéo đã tạo ra những vật làm đẹp cho con người có giá trị lớn trong lịch sử nghệ thuật trang sức.
1. Giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên
Giai đoạn mở đầu của thời đại dựng nước khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ hai Trước Công nguyên. Đây là sơ kỳ thời đại đồng thau.
Người Phùng Nguyên trang sức bằng vòng tay, hoa tai, hạt chuỗi, hạt cườm, những mãnh đá mỏng có lỗ để đeo, có hình đuôi cá, hình đồng xu hoặc không có hình thù nhất định.

Số lượng tài sản khác nhau chôn theo trong các ngôi mộ cổ giai đoạn Phùng Nguyên cho chúng ta biết về sự phân hoá tài sản trong xã hội thời đó. Những mảnh trang sức hình đuôi cá, tượng đàn ông Văn Điển có thể đã phản ánh sự xác lập của chế độ quyền cha, dòng cha. Những hình tượng hoa văn trang trí trên đồ gốm những dáng hình của vòng trang sức có thể phản ánh sự tồn tại của tục thờ thần mặt trời.
2. Giai đoạn văn hoá ĐỒNG ĐẬU
Giai đoạn thuộc nửa sau thiên niên kỷ thứ hai Trước Công nguyên.
Ngoài những kiểu loại hiện vật thường thấy trong giai đoạn Phùng Nguyên, xuất hiện một số dạng trang sức mới. Đó là các loại vòng tay cỡ lớn, những hoa tai có 4 núm, những hạt chuỗi hình gối quạ được làm rất chau chuốt, công phu, tỉ mỉ.
Đồ trang sức bằng đá Đồng Đậu đã hoàn thiện về hình dáng. Loại vòng có kích thước lớn và nặng được chế tạo một cách hoàn mỹ. Loại hoa tai 4 mấu phát triển. Loại hình vòng mới xuất hiện là loại vòng có khe hở tròn nhưng to, dày, trau chuốt, tinh vi. Loại hình hạt chuỗi mới là loại hình ống, hai đầu to, giữa cong lõm có khe hở: đó là loại hạt chuỗi hình gối gục. Ngoài ra còn có những đồ trang sức hình trụ tròn hay móng dẹt, có khắc hoặc có lỗ để đeo.

Nghề đá cũng được sử dụng để phục vụ cho nghề luyện kim. Khuôn đúc bằng đá được phát hiện ở nhiều nơi. Ở di chỉ Đồng Dền thấy có một khuôn đúc rìu còn nguyên vẹn cả 2 mang. Ở di chỉ Đồng Đậu phát hiện được một khuôn mỗi lần có thể đúc được 2 đầu mũi tên. Vũ khí gồm các loại mũi lao có một hoặc hai ngạnh, mũi nhọn có một hay hai đầu. Đồ trang sức có các loại vòng, vật có xuyên lỗ để đeo. Giai đoạn Đồng Đậu là một bước phát triển tất yếu trên cơ sở giai đoạn Phùng Nguyên. Nét nổi bật khiến giai đoạn này khác biệt hẳn giai đoạn trước là sự phá triển của kỹ thuật luyện kim đồng thau.
3. Giai đoạn văn hoá GÒ MUN
Giai đoạn nửa đầu thiên niên kỷ thứ nhất Trước Công nguyên.
Đồng thau được dùng làm đồ trang sức: vòng tay được uốn bằng những dây đồng.
4. Giai đoạn văn hoá ĐÔNG SƠN
Giai đoạn khoảng TK VII TCN đến đầu Công nguyên.
Văn hóa Đông Sơn được phát hiện đầu tiên vào năm 1924 bên bờ sông Mã thuộc làng Đông Sơn, huyện Đông Sơn, nay thuộc phường Hàm Rồng, Thành phố Thanh Hóa. Cho đến nay, năm 2014, quá trình phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn đã tròn 90 năm. Trải qua gần một thế kỷ, với những thành tựu của khảo cổ học, chứng cứ về Văn hóa Đông Sơn, một thời kỳ phát triển rực rỡ trong lịch sử dân tộc Việt Nam được nhiều chuyên gia, cũng như công chúng trong và ngoài nước hoàn toàn thán phục. Đây cũng là thời kỳ tạo tiền đề cơ sở vật chất cho sự ra đời nhà nước đầu tiên – nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, và là nền tảng hình thành truyền thống văn hóa Việt Nam.

Văn hóa Đông Sơn được phân bố chủ yếu ở 3 lưu vực sông chính đó là sông Hồng, sông Mã và sông Cả, thuộc các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam.
Văn hóa Đông Sơn là thời kỳ nở rộ của các sản phẩm đồng thau, với sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật đúc đồng, những sản phẩm đồng đã dần chiếm ưu thế trong đời sống của cư dân Đông Sơn. Trang sức bằng đồng được tìm thấy khá nhiều trong các di chỉ thuộc Văn hóa này, đa dạng về loại hình và kiểu dáng như: vòng (gồm vòng ống chân, vòng ống tay, vòng trổ thủng, vòng hình sống trâu, vòng có mặt cắt ngang hình bầu dục, hình tròn, hình lòng máng…) trâm cài, khóa thắt lưng… Một trong những loại hình đồ trang sức đồng được cư dân Đông Sơn ưa chuộng nhất là vòng ống. Vòng thường có hình nón cụt hay hình trụ rỗng,… trên thân có những đường gờ nổi song song với nhau, các đường chỉ chìm, đường tròn tiếp tuyến có chấm giữa, hoa văn sóng nước, ở một hay hai đầu thường được trang trí hoa văn hình bông lúa, hình chữ S…Vòng ống loại này thường có một rãnh hở để điều chỉnh độ rộng khi đeo. Nhiều chiếc vòng ống, ở vành miệng và thân được gắn nhạc đồng, chứng tỏ, ngoài chức năng làm đẹp, những chiếc vòng ống này còn là loại nhạc cụ độc đáo, đặc biệt trong những lễ hội. Bởi khi múa, những quả nhạc đồng (lục lạc) có kích thước xấp xỉ bằng nhau, đã rung đập vào nhau hay đập vào thân vòng tạo nên những âm thanh vui nhộn.

Những lục lạc đồng không chỉ được gắn trên vòng ống, các nhà nghiên cứu còn bắt gặp chúng được gắn trên một số hiện vật khác của Đông Sơn tìm thấy trong các di chỉ ở Làng Vạc (Nghệ An) như chuông đồng, muôi đồng, xà tích, khuyên tai, nhẫn, khóa thắt lưng. Điều đó càng chứng tỏ đời sống của cư dân dân Đông Sơn gắn liền với âm nhạc và nhảy múa, đặc biệt, trong những dịp hội hè, tế, lễ. Những hình ảnh này đã được khắc họa trên một số trống đồng Đông Sơn như hình người đội mũ lông chim hóa trang nhảy múa, qua những khối tượng như: Tượng người cõng nhau thổi khèn (Bảo tàng Lịch sử quốc gia – Bảo vật quốc gia năm 2012), hay qua tượng người thổi khèn trên cán muôi đồng trong mộ thuyền Việt Khê…. Trong khi múa, có nhiều nhạc khí đệm theo như: trống, chiêng, khèn…và trong một dàn nhạc có nhiều khạc khí như vậy thì vòng ống gắn nhạc có tác dụng làm cho tiết tấu bản nhạc thêm vui tươi, nhộn nhịp. Vòng ống chân, ống tay còn có chức năng chống đỡ những vật nhọn, nặng đâm vào cổ tay, cổ chân. Đặc biệt, đối với đàn ông, nó như một thứ giáp chắn khi ra trận. Nhiều dân tộc còn đeo nhiều vòng ở cổ tay, cổ chân để tránh vắt cắn khi đi rừng.


Người Đông Sơn rất thích đeo nhiều trang sức, ngoài trang sức ở tai, cổ, tay, thì họ còn quan tâm đến mái tóc, bởi lẽ “cái răng cái tóc là góc con người”. Những chiếc trâm cài đầu có chất liệu đồng tìm thấy trong các di tích Văn hóa Đông Sơn cũng là loại hình trang sức mang đặc trưng của cư dân thời kỳ này. Ngoài chức năng giữ cho mái tóc gọn gàng, trâm cài còn là vật trang trí, tô điểm cho mái tóc. Những phụ nữ quý tộc thường cài những loại trâm đẹp, có kích thước lớn, điển hình như chiếc trâm hình chữ P (gần giống hình chiếc vợt cán dài), mang ký hiệu LSb 24291, Bảo tàng Lịch sử quốc gia nhượng lại của ông Triệu Văn Ánh ở Hà Nội năm 1999.

Bên cạnh đó, khóa thắt lưng cũng là loại hình trang sức bằng đồng độc đáo của các thủ lĩnh, quan lại và những người giàu có thời kỳ này. Trên khóa thắt lưng thường trang trí những đường xoắn ốc, trang trí hình chữ S, có khóa thắt lưng gắn thêm lục lạc, và có những khóa thắt lưng trang trí cá sấu, hình rùa. Những con vật thể hiện cho sự dũng mãnh của các thủ lĩnh thời Đông Sơn.
Như vậy, những đồ trang sức này không chỉ có chức năng làm đẹp mà nó còn đóng vai trò quan trọng làm phong phú đời sống nghệ thuật, tinh thần và tâm linh của con người.

Bên cạnh những đồ trang sức bằng đồng, loại hình trang sức đá cũng được cư dân Đông Sơn ưa chuộng, gồm các loại hình như vòng tay các loại, khuyên tai, hạt chuỗi…với kỹ thuật khoan tách lõi, mài, giũa, đánh bóng… Có lẽ khuyên tai đá hình vành khăn là loại hình phổ biến của cư dân Đông Sơn. Loại đá được người Đông Sơn lựa chọn làm đồ trang sức là các loại đá trắng, xanh, có vân, xám, vàng nâu, nổi bật nhất là màu đỏ của mã não, xanh mát của đá ngọc hay trong suốt của thạch anh. Như vậy, để làm đẹp, người Đông Sơn không chỉ chế tạo ra các loại hình trang sức độc đáo, mà còn chú trọng về màu sắc của chúng, bởi chúng góp phần tôn thêm vẻ đẹp cho bản thân họ. Đặc biệt, trong Văn hóa Đông Sơn có những hạt chuỗi đá dài 3-4cm, được mài vát 2 đầu, đây là loại hạt chuỗi không phải để đeo ở cổ, mà theo một số tài liệu dân tộc học thì chúng được đeo ở tai, có lỗ ở giữa để cắm giải tua hay lông chim để trang trí.

Ngoài những trang sức bằng đồng, đá, cư dân Đông Sơn còn sử dụng đồ trang sức bằng thủy tinh. “Sản xuất thủy tinh là một nghề hoàn toàn mới, chỉ ra đời vào thời Đông Sơn…có ý kiến nói đến sự ra đời sớm của trung tâm chế tạo thủy tinh Sa Huỳnh và ảnh hưởng lan tỏa của nó đến các vùng xung quanh … Như vậy nghĩa là nghề làm thủy tinh Đông Sơn có nguồn gốc hay ít nhất thì cũng chịu ảnh hưởng của nghề thủy tinh Sa Huỳnh”. [Hà Văn Tấn (1994), Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội]. Trang sức có chất liệu thủy tinh đang trưng bày và giới thiệu tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia gồm: hạt chuỗi, vòng tay, khuyên tai… trong đó những chiếc vòng tay được xem là một trong những loại hình tiêu biểu.


Tuy kỹ thuật chế tác thủy tinh không phải là thế mạnh của cư dân Đông Sơn, nhưng với sự xuất hiện của đồ trang sức bằng thủy tinh trong văn hóa này cho thấy: cư dân Đông Sơn ngay từ rất sớm đã có sự giao lưu, trao đổi, cả về kỹ thuật và hàng hóa với các vùng trong khu vực.
Vậy những đồ trang sức đa dạng về chất liệu, phong phú về kiểu dáng, tinh xảo về hoa văn này đã được người Đông Sơn sử dụng như thế nào? Điều đó được phản ánh qua những khối tượng tròn trang trí trên thạp đồng, trên cán dao găm. Những khối tượng người trang trí cán kiếm, cán dao găm đồng được mô tả rất chân thực và sống động như hình người đàn ông mặc khố, đứng chống nạnh, tóc búi tròn, đôi vòng tai to chấm xuống vai, tay đeo vòng, cổ đeo vòng dài xuống đến ngực. Đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ trang trí trên cán kiếm được phát hiện ở núi Nưa (Triệu Sơn, Thanh Hóa) thể hiện một vẻ đẹp quý phái. Với mái tóc búi cao hình búp sen, cổ đeo hạt chuỗi dài đến bụng, vòng tai to chấm vai, hai tay đeo vòng. Qua đó cho thấy, thời kỳ này đồ trang sức được cư dân Đông Sơn khá ưa chuộng và sử dụng phổ biến cho cả đàn ông và phụ nữ. Tuy nhiên, cách trang sức của đàn ông và phụ nữ có đôi chút khác nhau, phụ nữ thường đeo khuyên tai to, nặng, dài chấm xuống vai, nhiều tượng Đông Sơn còn phát hiện họ đeo nhiều chiếc khuyên tai móc vào nhau, còn đàn ông thì đeo những chiếc khuyên nhỏ hơn, nhìn nghiêng mới thấy. Những tượng Đông Sơn phát hiện được cho đến nay mới chỉ thấy tượng phụ nữ đeo chuỗi hạt, và thường đeo nhiều chuỗi, chuỗi trong cùng sát vào cổ, chuỗi ngoài cùng chấm đến bụng, loại hình trang sức này chưa thấy ở tượng đàn ông.

Qua số lượng di vật trang sức tìm thấy trong Văn hóa Đông Sơn, chúng ta có thể hiểu, đời sống vật chất của cư dân thời kỳ này đã khá cao, từ đó họ mới có thể tập trung, dành nhiều tâm huyết và thời gian để cho ra đời nhiều loại hình trang sức cầu kỳ, tỉ mỷ và đẹp đến như vậy. Bên cạnh đó, chúng còn phản ánh sự phong phú trong đời sống tinh thần, đồng thời, phản ánh trình độ kỹ thuật, tư duy, thẩm mỹ trong kỹ thuật luyện kim đúc đồng, cũng như kỹ thuật chế tác đá của cư dân thời kỳ này.
Trang sức muôn thủa vẫn là kết tinh của nghệ thuật thẩm mỹ và đỉnh cao của kỹ thuật chế tác. Qua bàn tay tài khéo của nghệ nhân xưa, mỗi một món đồ trang sức đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Cho đến ngày nay, sức quyến rũ của sưu tập đồ trang sức cổ Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị.
Nguồn (với tất cả sự biết ơn của chúng tôi về những tư liệu nghiên cứu lịch sử quý giá này của các tác giả)
- Trang sức của người Việt cổ, Trịnh Sinh & Nguyễn Văn Huyên, 2001
- Hành trình trở về thời đại Hùng Vương dựng nước – Lê Văn Hảo – 2013
- Sưu tập trang sức Đông Sơn tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia – Nguyễn Thị Định (Phòng GDCC) – Bảo tàng Lịch sử quốc gia – 2014
- Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ Hùng Vương – Viết chì gỗ – 2016
- Hình ảnh hiện vật tại Triển lãm “Trang sức cổ Việt Nam” – Nhiều tác giả – 2015