gold bars saigon jewellery

Cung cầu Vàng và giá Vàng trên thị trường

Bản chất kép của Vàng: Vừa là tiền tệ, vừa là hàng hóa. Giá vàng giao dịch trên thị trường biến động do cung và cầu về vàng dựa trên tính tiền tệ của Vàng. Vàng là một loại tiền tệ và tiền tệ không thể thặng dư hoặc thâm hụt.


Giá vàng hôm nay

Sự khác biệt chính giữa vàng và hàng hóa dễ hư hỏng (perishable commodities) là stock-to-flow ratios. Tỷ lệ này được đo bằng lượng dự trữ sẵn có chia cho sản lượng hàng năm. Vàng có tỷ lệ stock-to-flow ratios rất cao, trong khi các mặt hàng như lúa mì thì tỷ lệ này thấp.

Hàng ngàn năm trước, mọi người bắt đầu sử dụng vàng như tiền, bởi vì vàng là bất biến, dễ phân chia và khan hiếm. Vàng là hàng hóa có giá trị thị trường cao nhất. 

Truyền thống lâu đời của Vàng là tài sản tích trữ giá trị, có nghĩa là rất ít vàng đã bị lãng phí trong lịch sử. Phần lớn số vàng từng được khai thác vẫn còn nguyên trong tay chúng ta. Do đó, sản lượng khai thác hàng năm của mỏ thêm khoảng 1,7% vào lượng vàng tích trữ sẵn có trên mặt đất.

Hầu hết vàng trên mặt đất được tích trữ cho mục đích tiền tệ. Vàng Trang sức kết hợp giữa giá trị thẩm mỹ và bảo toàn tài sản.
Hầu hết vàng trên mặt đất được tích trữ cho mục đích tiền tệ. Vàng Trang sức kết hợp giữa giá trị thẩm mỹ và bảo toàn tài sản.

Tại thời điểm tháng 3/2022, tổng dự trữ vàng trên mặt đất là 205.000 tấn và sản lượng khai thác toàn Thế giới năm 2021 là 3.560 tấn. Tỷ lệ stock-to-flow ratio (STFR) hiện là 58 = 205.000 / 3.560. STFR cao của vàng và thực tế là hầu hết vàng trên mặt đất được lưu trữ cho mục đích tiền tệ và giao dịch như một loại tiền tệ.


Lịch sử Giá vàng

Để hiểu cặn kẽ về sự hình thành giá của vàng, trước tiên chúng ta hãy xem xét động lực cung và cầu của một loại hàng hóa dễ hỏng. Sau đó, chúng ta sẽ thảo luận xem điều này khác với thị trường vàng như thế nào.

Dự báo giá vàng mới nhất từ Rashad Hajiyev

Khái niệm cơ bản về cung và cầu hàng hóa mềm (Soft Commodity)

Dựa trên dữ liệu từ World Agricultural Supply and Demand Estimates (WASDE), STFR trên thị trường lúa mì là 0,35 (278 triệu tấn tồn kho chia cho 776 triệu tấn sản lượng). Chỉ số STFR thấp khiến giá lúa mì chủ yếu được xác định bởi những gì được sản xuất hàng năm so với những gì được sử dụng hết. Các kho dự trữ hiện có chỉ có thể làm giảm thặng dư hoặc thâm hụt trên thị trường (được tính bằng sản lượng trừ tiêu dùng) ở một mức độ nhất định.

Lúa mì được cất giữ trong nhà kho bắt đầu bị hư hại sau vài năm. Vì vậy, phần thặng dư không thể được tiêu thụ hoàn toàn như một kho dự trữ: nó phải được bán đi, điều này làm giảm giá. Ngược lại, thâm hụt thị trường không thể được rút ra hoàn toàn từ nguồn cung hàng hóa, và do đó làm tăng giá. Ngoài ra, vì ứng dụng duy nhất của lúa mì là tiêu dùng, cần số lượng cố định, giá được hình thành cân bằng giữa sản xuất và tiêu thụ.

Trong biểu đồ dưới đây, bạn có thể thấy rằng kể từ năm 1974, thặng dư hoặc thâm hụt trên thị trường lúa mì toàn cầu có tương quan thuận với xu hướng giá lúa mì trong 85% thời gian. Về mặt logic, thặng dư làm cho giá giảm và thâm hụt làm cho giá tăng. Lưu ý, trục bên trái trong biểu đồ được đảo ngược để khớp với giá lúa mì.

World wheat market
Tất cả thặng dư lúa mì hàng năm kể từ năm 1974 cộng lại đều lớn hơn tất cả các khoản thâm hụt cộng lại. 
Khi dân số toàn cầu tăng lên, thị trường lúa mì phát triển, và dự trữ cũng tăng theo. 
STFR của lúa mì hầu như không thay đổi trong suốt nhiều năm. 
Thặng dư có thể xảy ra trong khi giá tăng nếu các thương nhân dự đoán nhu cầu cao hơn và chọn bổ sung lúa mì vào kho dự trữ cho năm tới khi họ có thể bán với giá cao hơn.

Tất cả những người tham gia thị trường lúa mì dựa vào dữ liệu cung cầu lúa mì và cân bằng thị trường (thặng dư hoặc thâm hụt). Nông dân nhìn vào số dư để quyết định trồng bao nhiêu lúa mì trong mùa tới. Các nhà đầu cơ sử dụng nó để ước tính giá sẽ như thế nào trong tương lai. Các nhà sản xuất sẽ cân nhắc thay thế lúa mì bằng một loại hàng hóa khác nếu giá tăng, v.v.

Động lực cung và cầu vàng

Thị trường vàng rất khác. Bởi vì vàng không được sử dụng hết và chủ yếu được sử dụng như một tài sản tích trữ giá trị, giá vàng không được hình thành bởi khối lượng sản xuất và tiêu dùng.

Do chỉ số STFR cao, nguồn cung vàng chủ yếu bao gồm hàng tồn kho. Và bởi vì hầu như mọi người đều mua vàng như một vật tích trữ giá trị, nên nhu cầu chủ yếu bao gồm hàng tồn kho. Thị trường vàng có thể được coi là tất cả các loại giao dịch chuyển kim loại từ hàng tồn kho này sang hàng tồn kho khác (có hoặc không có Vàng bị thay đổi về hình dạng, trọng lượng hoặc độ tinh khiết). Hoặc vàng vẫn ở trong kho cũ nhưng thay đổi quyền sở hữu.

Ngoài ra, việc sử dụng vàng cho mục đích tiền tệ không yêu cầu số lượng cố định. Mọi người không mua vàng bởi vì họ cần, ví dụ, năm ounce troy để xây một ngôi nhà. Những gì họ cần là “bất kỳ số lượng vàng nào” để đổi lấy giá trị họ muốn đầu tư ở mức giá hiện hành. Giá vàng có thể quá thấp hoặc quá cao, nhưng không thể có thặng dư hoặc thâm hụt. Đây là điều làm cho giao dịch vàng giống như một loại tiền tệ hơn là một loại hàng hóa.

Việc đo lường các loại nhu cầu riêng biệt, chỉ đơn giản là các phần nhỏ của tổng khối lượng giao dịch, có thể giúp chúng ta đánh giá tâm lý của các nhóm người mua cụ thể. Nhưng thật vô nghĩa nếu so sánh nó với sản lượng hàng năm. Tuy nhiên, một số công ty tư vấn thực hiện chính xác điều đó: công bố số liệu cân bằng thị trường vàng.

Điều gì gây biến động trên thị trường vàng?

Sau khi chế độ bản vị vàng bị bãi bỏ vào năm 1971, Hoa Kỳ đã cố gắng phá giá trị vàng (demonetize gold) bằng cách đưa ra một câu chuyện rằng vàng là vô dụng, để làm cho đồng USD trông mạnh hơn. Mặc dù hầu hết các ngân hàng trung ương giữ vàng và do đó vàng không bị phá giá trị. Nhưng một số người ở phương Tây đã ngừng xem vàng như một loại tiền tệ, mà hoàn toàn là một loại hàng hóa.

Vào những năm 1980, các công ty tư vấn như Gold Fields Mineral Services (GFMS) bắt đầu xuất bản các báo cáo về cung và cầu vàng. Các báo cáo này sau đó bao gồm cân bằng thị trường, được cho là cho biết giá vàng sẽ tăng hay giảm. Nói cách khác, họ trình bày vàng như thể nó là một loại hàng hóa dễ hư hỏng, có thể thặng dư hoặc thâm hụt.

Hàng triệu nhà đầu tư vàng đã bối rối trước những báo cáo này, họ nghĩ rằng giá vàng được xác định bởi sự chênh lệch giữa sản lượng khai thác hàng năm so với sản phẩm mới được chế tạo. Thứ hai là những gì mà các công ty tư vấn chủ yếu báo cáo là nhu cầu.

Hãy cùng xem Khảo sát vàng GFMS mới nhất được công bố rộng rãi trên trang web của họ.

the latest GFMS Gold Survey

Các nguồn cung cho thị trường GFMS là sản lượng khai thác mỏ và nguồn phân kim tái chế. 

Nguồn cầu, doanh số bán đồ trang sức mới chế tạo, các bộ phận công nghiệp, thỏi và tiền xu được ghi nhận. 

Các giao dịch mua / bán ròng của ngân hàng trung ương (khu vực chính thức), mua / bán ròng ETF (ETP) và tăng / giảm hàng tồn kho trao đổi ròng cũng được thêm vào số dư. 

Ở phía dưới, chúng ta có thể thấy “cán cân ròng” tổng thể, cho thấy thị trường đang thặng dư hoặc thâm hụt. Tuy nhiên, không có gì ngạc nhiên khi số dư ròng này không có mối quan hệ thống kê với giá vàng.

Trong biểu đồ dưới đây, tôi đã vẽ biểu đồ số liệu cân bằng ròng hàng năm (thu được từ Refinitiv , công ty ngày nay sở hữu GFMS ) so với giá vàng.

GFMS gold balance vs gold price

Từ năm 1982 đến năm 2020, chỉ có 44% thời gian “thặng dư” hoặc “thâm hụt” trên thị trường vàng có tương quan thuận với chiều hướng của giá vàng. Tung đồng xu sẽ có xác xuất tốt hơn: 50%. Điểm đáng thất vọng này được giải thích bởi thực tế rằng: Vàng là một loại tiền tệ và tiền tệ không thể thặng dư hoặc thâm hụt.

Hơn nữa, theo GFMS, loại nhu cầu lớn nhất là nhu cầu vàng trang sức. Tuy nhiên, nhìn trong biểu đồ, nó cho thấy nhu cầu đồ trang sức di chuyển theo hướng ngược lại với giá vàng. Người mua trang sức nhạy cảm về giá cả; họ không định giá.

Gold jewelry demand vs gold price

Bởi vì các nguồn dự trữ trên mặt đất lớn hơn rất nhiều so với sản lượng khai thác hàng năm. Nên sản lượng khai thác mỏ cũng không thúc đẩy giá vàng trong ngắn hạn và trung hạn. Nghiên cứu hàn lâm xác nhận tuyên bố này. Từ  Fergal O’Connor , Giảng viên Tài chính tại Cork University Business School (nguồn):

Tỷ lệ [stock to flow ratio] cao cho thấy sức mạnh thị trường của các công ty khai thác vàng thấp. Do đó không có khả năng ảnh hưởng đáng kể đến giá vàng. Vì vậy, sản lượng khai thác của mỏ phụ thuộc theo giá vàng. Những người khai thác vàng có sức mạnh thị trường thấp và có khả năng là người chấp nhận giá hơn là người định giá.

Sản lượng khai thác hàng năm phản ứng với giá vàng chứ không phải ngược lại. Khi có thị trường tăng giá, các dự án khai thác mới được bắt đầu. Mười năm sau, các mỏ này bắt đầu sản xuất và nâng tổng sản lượng của mỏ. Tất nhiên, về lâu dài, nguồn cung từ mỏ sẽ ảnh hưởng đến giá vàng, vì nó làm tăng nguồn cung trên mặt đất theo thời gian.

Annual mine output vs end of year gold price

Cung và cầu của các tổ chức thúc đẩy giá vàng

Nếu một quỹ đầu tư mua 1 thỏi vàng 400 ounce từ một ngân hàng ở London, giao dịch này sẽ không hiển thị trong dữ liệu cung và cầu do GFMS công bố. Tuy nhiên, nó có tác động chính xác đến giá vàng như việc bán 400 đồng xu mới đúc có trọng lượng 1 troy ounce.

Vì các thỏi vàng 400 ounce được giao dịch với khối lượng lớn suốt cả ngày tại thị trường vàng thỏi bán buôn ở London và Thụy Sĩ, đó là nơi giá được ấn định. 15 năm trong số 17 năm qua, dòng chảy ròng của vàng (nhập khẩu trừ xuất khẩu) qua Vương quốc Anh có tương quan thuận với giá vàng. Đó không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Cung và cầu vàng của các tổ chức tạo ra biến động giá vàng.

UK annual net gold flow vs gold price

Các thị trường phái sinh được kết nối với Thị trường vàng thỏi London (thị trường giao ngay có tính thanh khoản cao nhất) thông qua chênh lệch giá. Các lực lượng từ thị trường kỳ hạn COMEX ở New York được thực hiện dựa trên cung và cầu vật chất ở London.

Lý do tại sao nhập khẩu ròng và xuất khẩu ròng ở London thường tương quan với giá vàng là bởi vì thường “phương Đông” chiếm chiều ngược lại của giao dịch ở phương Tây. Nếu các nhà đầu tư tổ chức phương Tây mua vàng, khiến giá tăng, các quốc gia ở châu Á sẽ bán ra và vàng chuyển từ phương Đông vào các hầm chứa ở London. Khi các nhà đầu tư tổ chức phương Tây bán vàng, khiến giá giảm, các nước ở châu Á mua vào và vàng sẽ chảy từ Anh sang phương Đông.

Tổng quan về cung và cầu vàng chính xác sẽ bao gồm khối lượng giao dịch vàng vật chất toàn cầu, nhưng nó sẽ không bao gồm số dư ròng. Rốt cuộc, đối với mỗi người mua có một người bán. Không thể có thặng dư hoặc thâm hụt như đối với hàng hóa mềm. Điều đó không có nghĩa là tất cả dữ liệu GFMS là vô nghĩa; nhiều thông tin có giá trị có thể được trích xuất từ ​​nó. Sự phản đối chính của tôi là cách tiếp cận “cân bằng thị trường” của họ.

* Thực tế là số dư ròng thường có tương quan nghịch với giá vàng là do ngành hàng có nhu cầu lớn nhất của GMFS là nhu cầu trang sức. Như đã thảo luận, người mua trang sức nhạy cảm với giá cả, vì vậy khi giá tăng, cầu trang sức sẽ giảm và cán cân ròng chuyển sang thặng dư.

Giá Vàng biến động trong các thời kỳ suy thoái

Theo truyền thống, vàng được coi là tài sản trú ẩn an toàn, với nhiều nhà đầu tư chuyển sang kim loại màu vàng trong thời kỳ suy thoái và thời kỳ hỗn loạn.

Vì vậy, làm thế nào để vàng giữ vững khi nền kinh tế suy thoái?

Đồ họa trên sử dụng dữ liệu từ Macrotrends để làm nổi bật biến động giá vàng trong thời kỳ suy thoái và so sánh nó với những thay đổi trong S&P 500.

Giá Vàng biến động trong các thời kỳ suy thoái

Nguồn: Gainesville Coins

Gửi phản hồi

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

You cannot copy content of this page

Lên đầu trang